TỔNG QUAN VỀ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU
Huyết khối tĩnh mạch là tình trạng cục máu đông (huyết khối) hình thành trong tĩnh mạch. Cục máu đông này có thể hạn chế lưu lượng máu qua tĩnh mạch, gây sưng và đau. Thông thường nhất, huyết khối tĩnh mạch xảy ra ở "tĩnh mạch sâu" ở chân, đùi hoặc xương chậu. Đây được gọi là huyết khối tĩnh mạch sâu. (hình 1)
Huyết khối tĩnh mạch sâu là loại huyết khối tĩnh mạch phổ biến nhất. Tuy nhiên, cục máu đông có thể hình thành bất cứ nơi nào trong hệ thống tĩnh mạch. Nếu một phần hoặc toàn bộ cục máu đông trong tĩnh mạch vỡ ra từ nơi nó được tạo thành, nó có thể đi khắp hệ thống tĩnh mạch; đây được gọi là thuyên tắc. Nếu thuyên tắc trong phổi, nó được gọi là thuyên tắc phổi, một tình trạng nghiêm trọng dẫn đến hơn 50.000 ca tử vong mỗi năm tại Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, thuyên tắc phổi có nguyên nhân là một phần của huyết khối tĩnh mạch sâu bị vỡ ra và làm tắc tĩnh mạch trong phổi. Thuật ngữ "thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch" mô tả cả huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi.
Bài viết này thảo luận về các yếu tố nguy cơ, dấu hiệu và triệu chứng, quá trình chẩn đoán và điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu. Chẩn đoán và điều trị thuyên tắc phổi được thảo luận riêng.
Đây được gọi là huyết khối tĩnh mạch sâu.(hình 1)
NGUY CƠ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU
Có một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối tĩnh mạch sâu.
Nếu một người được phát hiện mắc huyết khối tĩnh mạch sâu và không có vấn đề y khoa hoặc phẫu thuật, chấn thương chân hoặc bất động gần đây có thể gây ra huyết khối tĩnh mạch sâu, có thể nguyên nhân ở đây là do một vấn đề liên quan tới di truyền. Điều này đặc biệt đúng ở những người có thành viên gia đình cũng đã bị huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi. Trong những trường hợp này, xét nghiệm tìm hội chứng tăng đông máu di truyền (một vấn đề di truyền khiến cục máu đông được hình thành dễ dàng hơn bình thường) có thể được khuyến cáo.
Tuy nhiên, việc tìm kiếm hội chứng tăng đông máu di truyền thường không thay đổi cách bác sĩ điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu và có thể không làm tăng nguy cơ có cục máu đông khác trong tương lai. Do đó, không phải lúc nào cũng cần thiết hoặc có được lợi ích từ việc kiểm tra hội chứng tăng đông máu di truyền.
Các vấn đề y tế hoặc thuốc - Một số vấn đề y tế và thuốc làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông:
● Ung thư
● Bất động (ví dụ, do nhập viện, phục hồi sau chấn thương, nằm liệt giường hoặc bị liệt)
● Huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi trước đó
● Tuổi cao, đặc biệt là trên 65 tuổi
● Béo phì
● Mang thai
● Một số loại thuốc (ví dụ: thuốc tránh thai, liệu pháp thay thế hormone, tamoxifen,
thalidomide, erythropoietin). Nguy cơ hình thành cục máu đông tăng lên ở những người sử dụng một trong những loại thuốc này và họ cũng có các yếu tố nguy cơ khác.
● Hút thuốc
● Suy tim
● Các vấn đề về thận, chẳng hạn như hội chứng thận hư
Ung thư - Những người đang điều trị ung thư (ví dụ, bằng hóa trị hoặc xạ trị), hoặc bị ung thư tiến triển và không được điều trị, có nguy cơ cao hình thành huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc phổi.
Phẫu thuật và các điều kiện liên quan - Các thủ tục phẫu thuật, đặc biệt là các phẫu thuật liên quan đến hông, xương chậu hoặc đầu gối, làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông. Trong thời gian phục hồi, việc không vận động kéo dài cũng có thể làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông. Các biện pháp giúp giảm nguy cơ hình thành cục máu đông được thảo luận dưới đây.
Hội chứng tăng đông di truyền – Hội chứng tăng đông máu di truyền đề cập đến một vấn đề di truyền làm cho máu hình thành cục máu đông hình thành dễ dàng hơn bình thường. Các yếu tố khác nhau trong quá trình đông máu có thể liên quan, tùy thuộc vào loại vấn đề di truyền hiện tại.
Những người được chẩn đoán bị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch đôi khi được tìm thấy có hội chứng tăng đông máu di truyền. Ví dụ về hội chứng tăng đông máu bao gồm yếu tố V Leiden; đột biến gen prothrombin; và sự thiếu hụt các yếu tố làm loãng máu tự nhiên (antithrombin, protein C và protein S).
Hội chứng tăng đông mắc phải - Một số loại hội chứng tăng đông không liên quan tới di truyền, nhưng vẫn có thể làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông. Những ví dụ bao gồm:
● Một số rối loạn về máu, chẳng hạn như đa hồng cầu nguyên phát hoặc tăng tiểu cầu nguyên phát
● Kháng thể kháng phospholipid (kháng thể trong máu có thể ảnh hưởng đến quá trình đông máu) (xem phần "Giáo dục bệnh nhân: Hội chứng antiphospholipid (Nâng cao)")
● Tăng nồng độ của một hoặc nhiều yếu tố liên quan đến đông máu, chẳng hạn như yếu tố VIII, làm tăng nguy cơ đông máu.