TỔNG QUAN.
Nam, 50t, người Mỹ gốc Phi, tiền sử tăng huyết áp đáp ứng tốt với điều trị bằng hydrochlorothiazide tới khám tổng quát. Tổng quan các hệ cơ quan đều bình thường. Khám tuyến tiền liệt bình thường. Kết quả xét nghiệm nồng độ kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (PSA) 5.4 ng/mL (bình thường <4.0 ng/mL).
-
Tuyến tiền liệt bình thường khi thăm khám (khám trực tràng bằng ngón tay) như thế nào?
Khi thăm khám qua trực tràng, sờ thấy rõ 2 thùy của tuyến tiền liệt ngăn cách bởi rãnh giữa. BS cảm nhận xem có u hay cấu trúc bất thường nào ở 2 thùy này không. Qua trực tràng chỉ khám được phần sau của mặt sau tuyến tiền liệt.
-
PSA là gì? Ý nghĩa?
PSA(prostate-specific antigen ) là chất được tạo ra trong bào tương của tế bào tuyến tiền liệt (cả TB lành tính và ác tính đều tạo PSA). Do đó nồng độ PSA có tương quan với kích thước mô tuyến tiền liệt và KHÔNG đặc hiệu cho ung thư tuyến tiền liệt. Giá trị PSA tăng lên theo tuổi là bình thường, do đó giá trị PSA ở nam giới (40 - 49t) <2.5 ng/mL trong khi bình thường ở nam giới (70 - 79t) có thể tới 6.5 ng/mL (do tuyến tiền liệt tăng kích thước theo tuổi). Tuy nhiên, giá trị PSA >4.0 ng/mL thường được xem là bất thường.
-
Nguy cơ mắc và tử vong do ung thư tuyến tiền liệt ở một người nam 50t là gì?
Khả năng mắc ung thư tuyến tiền liệt ở một người nam 50t là 40%. Tuy nhiên khả năng phát tiến triển của bệnh trên lâm sàng ở người này chỉ có 10% và khả năng tử vong là 3%. Vì tỉ lệ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt ở nam là rất nhỏ (3%) nên đang có tranh cãi về việc sử dụng giá trị PSA để tầm soát bệnh. Ủy ban phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ (USPSTF) không khuyến cáo dùng PSA để tầm soát ung thư tuyến tiền liệt.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG:
Người bệnh được chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn của siêu âm qua ngã trực tràng. Phát hiện một vùng có echo dày (trắng, có bóng lưng) ở vùng rìa của tuyến tiền liệt, vùng này đã được sinh thiết .
-
Trên tiêu bản mô học của ung thư tuyến tiền liệt hay thấy gì nhất?
Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma) là loại ung thư tuyến tiền liệt phổ biến nhất. Loại ung thư này xuất phát từ chùm nang tuyến tiền liệt nhưng trên tiêu bản mô sẽ thấy một vùng không đồng nhất (chứa các loại TB ở nhiều giai đoạn biệt hóa khác nhau). Hệ thống phân độ Gleason được sử dụng để chia cấp độ các khối u tuyến tiền liệt (dựa trên sự biệt hóa khác nhau). Điểm 1 (đã biệt hóa tối đa) tới 5 (chưa biệt hóa thành tuyến) để đánh giá cho hình thái mô chiếm ưu thế nhất trên tiêu bản. Một bảng điểm từ 1 tới 5 khác để đánh giá cho hình thái mô chiếm ưu thế thứ hai. Kết hợp 2 bảng điểm lại ta được bảng phân độ Gleason (2–10). Bên cạnh cách phân độ TNM, Gleason cũng là dấu chỉ tốt để tiên lượng bệnh ung thư tuyến tiền liệt.
-
Tại sao người bệnh ung thư tuyến tiền liệt bị bí tiểu? Tại sao tinh dịch có lẫn máu?
Khi bệnh tiến triển tại chỗ có thể gây tắc nghẽn niệu đạo đoạn đi ngang tuyến tiền liệt gây bí tiểu. Nếu khối u xâm lấm vào túi tinh sẽ gây ra triệu chứng tinh dịch lẫn máu hoặc làm giảm thể tích tinh dịch phóng ra.
-
Vị trí di căn thướng thấy nhất của ung thư tuyến tiền liệt là gì? Triệu chứng và dấu hiệu nào cho thấy khối u có khả năng đã di căn?
Xương và các hạch bạch huyết vùng chậu là những vị trí di căn thường thấy nhất. Khi di căn xương, cột sống là xương dễ bị ảnh hưởng nhất. Kết quả là người bệnh ung thư tuyến tiền liệt có thể đau vùng thắt lưng hoặc vùng chậu. Di căn cốt bào là chẩn đoán rõ ràng cho ung thư tuyến tiền liệt. Thường kèm tăng nồng độ alkaline phosphatase huyết tương. Khi di căn hạch bạch huyết vùng chậu, thường thấy người bệnh có phù hạch bạch huyết một bên.